Bài viết phân tích sự gia tăng khủng hoảng tâm lý ở giới trẻ toàn cầu, nhấn mạnh vai trò của hy vọng và năng lực tự chủ, cũng như tầm quan trọng của mentoring và giáo dục mở wider để cải thiện cuộc sống trẻ và các cơ hội tương lai. Nhấn mạnh mối liên hệ giữa hy vọng, hành động và kết quả sức khỏe lâu dài, đồng thời nêu một số chương trình và hệ thống giúp tăng cường hỗ trợ xã hội cho thanh thiếu niên.

Điểm nổi bật:

Mentorship và hy vọng là yếu tố then chốt giúp giới trẻ đối mặt khủng hoảng tâm lý và tìm kiếm con đường học tập, việc làm cũng như tăng cường sức khỏe và sự ổn định xã hội.

Xã hội cần hy vọng

Những người trẻ trên toàn cầu đang trải qua một cuộc khủng hoảng sâu sắc về sự bất hạnh và sức khỏe tâm thần. Nhiều người cho rằng sự mở rộng của mạng xã hội bắt đầu từ năm 2012-2013 và những tác động lâu dài của đại dịch COVID-19 lên đời sống xã hội của giới trẻ là nguyên nhân chính, và không nghi ngờ gì, những yếu tố này đã làm trầm trọng thêm sự suy giảm này. Tuy nhiên, nguyên nhân thực sự của khủng hoảng này còn sâu xa hơn. Chúng liên quan tới tương lai không chắc chắn mà giới trẻ phải đối mặt do bản chất thay đổi của công việc và kỹ năng phức tạp hơn cần thiết để thành công; sự cực đoan chính trị và thông tin sai lệch lan rộng; sự suy giảm của các chuẩn toàn cầu về hòa bình và hợp tác; những biến động do biến đổi khí hậu gây ra; và sự suy giảm của các tổ chức xã hội truyền thống như công đoàn và các nhóm tôn giáo. Trong khi đó, gia đình đóng vai trò lớn hơn trong cung cấp hỗ trợ tài chính và xã hội ở các nước có thu nhập thấp và trung bình so với những nước giàu, như một lớp đệm trước những xu thế này.

Có nhiều cách mà khủng hoảng bất hạnh này thể hiện ra. Một trong số đó là sự biến mất gần đây của một đường cong hình chữ U lâu đời giữa tuổi tác và hạnh phúc. Trước đây, đáy của đường cong này ở giữa đời người, và người trẻ lẫn người già đều có mức độ hạnh phúc cao hơn ở các khía cạnh khác của phúc lợi. Mối quan hệ này đã được duy trì ở hầu hết các nước trên thế giới cho tới năm 2020; ở nhiều nước ở Bắc Mỹ và châu Âu – và cả ở một số nước ở Mỹ Latin, châu Phi và Châu Á – mối quan hệ nay đã trở thành một xu hướng tăng thẳng đứng. Điều này có nghĩa là nhóm không hạnh phúc nhất ở những nước này hiện nay là người trẻ (18–34 tuổi) và những người hạnh phúc nhất là những người trên 55 tuổi.

Một biểu hiện cực đoan hơn là sự gia tăng số người tự tử, sự gia tăng lo âu và trầm cảm, và mức độ cô đơn “dịch tễ” cao ở giới trẻ, đặc biệt ở Hoa Kỳ và Vương quốc Anh. Hoa Kỳ đã đối mặt với một khủng hoảng được gọi là “tử vong vì tuyệt vọng”; những cái chết sớm do tự tử, quá liều và ngộ độc rượu/thuốc đang tăng lên ở giới trẻ, đặc biệt là những người từ 18–25 tuổi. Xu hướng bất hạnh ở thanh niên Mỹ thường nhất ở mức độ cao vì hệ thống hỗ trợ xã hội của nước này hạn chế, chi phí giáo dục và y tế quá cao, và tỉ lệ bạo lực súng đạn cao – kể cả trong trường học. Do đó, có một khoảng chênh mortality lớn giữa người có bằng đại học và người không có. Những thách thức này có thể là gánh nặng lớn cho giới trẻ khi họ cố gắng định hình tương lai của mình.

Khủng hoảng này có ý nghĩa về mặt con người do các chi phí về tuổi thọ và chất lượng cuộc sống bị ảnh hưởng; người mắc bệnh tâm thần có khả năng hoàn thành giáo dục đại học thấp hơn và có nguy cơ sức khỏe kém, vô gia cư và mất việc làm lâu dài. Nó cũng phản ánh một sự thất vọng hệ thống rộng lớn ở một thế hệ ở nhiều quốc gia và nhiều mức độ phát triển khác nhau. Nghiên cứu của tôi – và của một số người khác – cho thấy hy vọng là một yếu tố then chốt liên quan tới sức khỏe, tuổi thọ, năng suất và các mối quan hệ xã hội ổn định, và sự tự tin vào tương lai gắn với hành động và cơ hội hành trình tốt đẹp phía trước. Các nhà tâm thần học cho rằng hy vọng là bước đầu tiên để phục hồi sau bệnh tâm thần. Những người có hy vọng có xu hướng tin vào tương lai của họ và đầu tư vào đó; ngược lại, những người tuyệt vọng thường không quan tâm đến việc sống hay chết. Nhiều nghiên cứu cho thấy các mối liên hệ giữa tuyệt vọng và rối loạn tâm thần cùng với thông tin sai lệch và chủ nghĩa cực đoan; tuy nhiên có một số nghiên cứu khác cho rằng điều này không hẳn đúng.

Mặc dù tôi đã làm việc lâu dài về tổng thể hạnh phúc, tôi bắt đầu sự nghiệp với kinh tế học phát triển. Tôi sinh ra ở Peru và thời thơ ấu đã được trải nghiệm cuộc sống dưới tác động của đói nghèo – điều mà cha tôi, một bác sĩ nhi khoa tại Johns Hopkins ở Baltimore, đã nghiên cứu. Ông nhận thấy rằng với chẩn đoán và điều trị thích hợp, như xử lý thiếu hụt khoáng chất thiết yếu như đồng và kẽm, trẻ sơ sinh bị suy dinh dưỡng có thể phục hồi và có một cuộc sống lành mạnh. Lúc đó, kiến thức và điều trị cho những thiếu hụt này chưa được phổ biến rộng rãi. Kinh nghiệm ban đầu đó đã khiến tôi cam kết hiểu rõ tác động của nghèo đói và bất bình đẳng lên cuộc sống và sức khỏe của con người. Kinh tế học phát triển dường như là công cụ tốt nhất để làm được điều đó.

Tôi cũng ngày càng tò mò về tâm lý liên quan, như tại sao và làm thế nào những người sống trong cảnh nghèo cùng cực có thể lạc quan, hào phóng và sáng tạo như họ ở Peru. Tôi đã làm luận án tiến sĩ về các chiến lược đối phó của người nghèo trong bối cảnh siêu lạm phát và khủng bố Shining Path ở Peru cuối thập kỷ 1980. Điểm nổi bật là sự kiên cường của người nghèo nhưng cũng sự khéo léo trong việc điều chỉnh điều kiện kinh tế khó khăn – như trao đổi tiền lương địa phương sang đô la để ngăn chặn sự mất mát nhanh chóng do lạm phát. Họ cũng học được những thực phẩm nào rẻ và có lợi cho sức khỏe của con cái họ.

Tôi nhận ra rằng các nhà kinh tế tại Mỹ, những người chưa từng đối mặt với thách thức như vậy, có thể không thể điều chỉnh chúng với sự khéo léo và lạc quan tương tự. Và ngay cả bây giờ, sau hơn 30 năm, các cuộc khảo sát gần đây của tôi tại Peru và Missouri cho thấy sự khác biệt rõ ràng giữa ước mơ và khát vọng của thanh niên Peru và hy vọng rất thấp của giới trẻ Mỹ có thu nhập thấp, đặc biệt là người da trắng. Nghiên cứu của tôi cho thấy các thước đo mà chúng tôi đã phát triển có thể dùng làm cảnh báo cho các nhóm dễ bị tổn thương. Những người có hy vọng, ý nghĩa và năng lực có kết quả tốt hơn, trong khi những người ở trong tuyệt vọng lại thiếu những cảm xúc và phẩm chất này và có quãng đời bị kể lại bi kịch. Vì vậy, tôi hy vọng chúng ta có thể dùng các thước đo này như một công cụ trong việc giải quyết khủng hoảng sức khỏe tâm lý ở giới trẻ.

Quan điểm của tôi là nguyên nhân của khủng hoảng sức khỏe tâm lý ở giới trẻ – ở Mỹ và ở nhiều nơi khác – bắt nguồn từ sự bất định sâu sắc về tương lai và khả năng kiếm được công việc để nuôi sống gia đình và có chất lượng cuộc sống hợp lý; vì vậy, giáo dục là một phần thiết yếu của giải pháp. Và điều cốt lõi là các đổi mới làm cho giáo dục dễ tiếp cận hơn cho những người có điều kiện hạn chế và trang bị họ với các kỹ năng mới và phức tạp cần thiết cho thị trường lao động của ngày mai.

Để làm cho giáo dục trở nên sẵn có và phù hợp hơn, chúng ta cần tái thiết kế cách thức giảng dạy, sao cho học sinh được hỗ trợ và được cố vấn, và các kỹ năng không thường được phát triển trong chương trình học phổ thông được đưa vào giáo dục. Không có một công thức thành công đã được thử và đúng cho mọi hoàn cảnh, vì giáo dục có yếu tố bối cảnh rất cụ thể và phải được điều chỉnh cho từng dân số và cộng đồng nơi nó được triển khai. Điều này đòi hỏi sự tham gia của các bên liên quan then chốt (ví dụ, cha mẹ, học sinh và cộng đồng) và người tiêu dùng giáo dục (ví dụ, cha mẹ và học sinh) khi triển khai các đổi mới, vì những thay đổi trong cách trẻ được giáo dục hiếm khi thành công nếu thiếu sự ủng hộ của họ.

Một bài học quan trọng khác là vai trò của mentorship, đặc biệt ở các bối cảnh ít được ưu tiên, nơi học sinh có thể là người đầu tiên trong gia đình được tham gia giáo dục sau THPT hoặc cha mẹ vắng mặt vì nhiều lý do như chấn thương gia đình hoặc lịch làm việc quá tải. Nghiên cứu của tôi cho thấy mentor – ở trường hoặc trong gia đình hay cộng đồng – đóng vai trò then chốt trong việc chỉ dẫn học sinh đưa ra các quyết định đầu tư vào giáo dục với thông tin hạn chế và, quan trọng hơn, duy trì khát vọng và mục tiêu trước những cú sốc tiêu cực hoặc thử thách khác. Việc thấy vai trò quan trọng của hy vọng và khát vọng trong việc thúc đẩy nỗ lực của người nghèo ở Peru để theo đuổi cuộc sống tốt đẹp đã truyền cảm hứng cho tôi nghiên cứu về cảm xúc và phúc lợi trong lĩnh vực kinh tế và tập trung vào khủng hoảng sức khỏe tâm lý ở giới trẻ qua lăng kính này.

Sự hồi sinh của các câu lạc bộ tranh biện tại các trường trung học công Chicago đã nâng cao thành tích học tập và tăng hy vọng, năng lực và sự tham gia của các học sinh tham gia. Nghiên cứu cho thấy vai trò quan trọng của các kỹ năng không thường có trong chương trình giảng dạy ở trung học phổ thông, như kiến thức tài chính, tự tin và kỹ năng giao tiếp, giúp học sinh thành công trên thị trường lao động. Chương trình Youthful Savings ở New York và Santa Monica dạy cho học sinh trung học kiến thức tài chính, thực hành kinh doanh công bằng và chú ý tới sức khỏe tâm thần. Mentor là một phần quan trọng trong thành tích của chương trình. Ví dụ, Jose Santana, một học sinh Bronx con của người nhập cư Dominican, đã được hỗ trợ để vào đại học nhờ kỹ năng và sự dìu dắt của Somya Munjal, người sáng lập Youthful Savings. Munjal từng phải vượt qua khó khăn tài chính để học tập và tìm thấy ý nghĩa trong việc giúp người khác đạt được mục tiêu của họ. Santana là một trong rất nhiều tấm gương trẻ được truyền cảm hứng.

Ví dụ khác về việc giới trẻ được tiếp xúc với các kỹ năng có thể dùng trong thị trường lao động là các câu lạc bộ tranh biện ở nhiều trường Chicago. Tranh biện đòi hỏi kỹ năng giao tiếp tốt, khả năng lắng nghe đối thủ và biện luận dựa trên bằng chứng một cách bình tĩnh và lịch sự. Những kỹ năng này đang nhanh chóng bị suy giảm trong môi trường hiện tại đầy chia rẽ và gay gắt. Sự hồi sinh của các câu lạc bộ tranh biện đã nâng cao thành tích học tập và tăng hy vọng, năng lực và sự tham gia của học sinh, theo sách của Robert Litan, Resolved (2020). Nghiên cứu của Rebecca Winthrop và Jenny Anderson cho cuốn The Disengaged Teen (2025) xác nhận tầm quan trọng của việc hỗ trợ học sinh phát triển các kỹ năng vượt ngoài chương trình học thông thường, như sáng tạo, khám phá và năng lực tự chủ. Họ phân loại học sinh thành “người phản kháng”, “học sinh thụ động”, “người đạt được” và “những người khám phá” – nhóm cuối cùng là nhóm tham gia tích cực nhất.

Ở Vương quốc Anh, chương trình BeeWell tại khu vực Greater Manchester tiến hành các cuộc khảo sát hàng năm nhằm đo lường các chỉ số phúc lợi và đưa ra khuyến nghị cho cộng đồng dựa trên những phát hiện của họ. Đánh giá sau ba năm triển khai chương trình vào năm 2019 ở 192 trường trên toàn quận cho thấy hành động đáng kể đã được thực hiện nhờ những phát hiện này, và các kết quả được công khai công khai cho cộng đồng. Trong khi đó, các trường cao đẳng cộng đồng ở Mỹ đóng vai trò ngày càng quan trọng trong việc giúp học sinh có thu nhập thấp theo học và hoàn thành đại học. Điểm nhấn là Macomb Community College (MCC) ở Detroit, không chỉ cung cấp đội ngũ giảng viên và chương trình giảng dạy mà còn là một hub liên kết các trường cao đẳng và đại học khác để cung cấp các khóa học nhằm giúp sinh viên hoàn tất bằng cử nhân bốn năm. Khoảng 63% số học sinh chuyển từ MCC sau đó hoàn thành bằng cấp bốn năm. MCC kết hợp đổi mới chương trình học với mentorship và các hoạt động công dân nhằm khuyến khích thảo luận và mời diễn giả từ bên ngoài, điều này hiếm gặp ở một quận có dân cư phân hóa như Macomb. Tổng thể, mục tiêu là cho sinh viên thấy có thể phát triển mạnh trong lực lượng lao động mà không phải rời khỏi quận của họ.

Bài viết kết thúc với chân dung Art McCoy, người từng làm hiệu trưởng của một trong những quận trường Jennings ở Saint Louis, Missouri. Khi nhận chức, Jennings có một trong những tỷ lệ tốt nghiệp và việc làm kém nhất tại Missouri; nay nó đạt tỷ lệ tốt nghiệp, việc làm và tuyển dụng sau khi học xong 100%. Thành công của ông có lẽ do nhiều yếu tố phức tạp, nhưng một yếu tố then chốt là khả năng truyền cảm hứng cho học sinh đầu tư vào giáo dục và nuôi dưỡng hy vọng không ngừng nghỉ. McCoy có khả năng giao tiếp với nhiều đối tượng khác nhau, với sự thấu cảm và hài hước, đồng thời cổ vũ cho sự nỗ lực, chủ động và kiên trì. Việc làm việc với McCoy cho tôi thấy mentorship tận tâm có thể biến một hệ thống trường học đang gặp khó khăn thành một cộng đồng gắn kết, cung cấp sự hỗ trợ và nguồn cảm hứng để đối mặt với những thách thức khó khăn. Tôi chưa bao giờ kết thúc một cuộc trò chuyện với ông mà không cảm thấy hy vọng được làm mới, ngay cả trong thời đại đầy chia rẽ và khó khăn. Ông hiện đang tham gia hỗ trợ những người trẻ ở các khu vực nghèo của Saint Louis để theo đuổi sự khởi nghiệp và độc lập sau khi kết thúc giáo dục.

Vào thời điểm giới trẻ đang phải chịu đựng tổn thất và lo âu về tương lai, những người như Art McCoy, Somya Munjal và Julie Rusk đã giúp họ tin vào bản thân và khả năng vượt qua thách thức. Dù những thách thức này phức tạp và đáng sợ và chúng ta chưa có lời giải cho nhiều vấn đề, nhưng chúng ta biết rằng những người trẻ bị tuyệt vọng và lo âu rất có nguy cơ rời khỏi xã hội. Việc khôi phục hy vọng không phải là một giải pháp đảm bảo, nhưng nó là một bước đầu quan trọng. Đó là bài học tôi học được từ những người nghèo ở Peru, và nó vẫn đúng cho đến ngày nay trong một ngữ cảnh và thời đại khác.