Khảo sát RECOVER do NIH tài trợ phân tích hơn 460.000 trẻ em và thanh niên, cho thấy tái nhiễm COVID-19 làm tăng gấp đôi nguy cơ phát triển triệu chứng COVID kéo dài, bao gồm tổn thương tim, phổi, thận và mất vị giác, bất kể tình trạng tiêm chủng hay mức độ nghiêm trọng ban đầu.

Điểm nổi bật:

  • Tái nhiễm COVID-19 làm tăng gấp đôi nguy cơ phát triển triệu chứng COVID kéo dài.
  • Những người tái nhiễm dưới 21 tuổi có nguy cơ tổn thương tim, thận và phổi cao hơn.
  • Tiêm chủng giảm nguy cơ nhiễm ban đầu và tái nhiễm nhưng không loại bỏ hoàn toàn nguy cơ COVID kéo dài.
  • Nguy cơ kéo dài xuất hiện bất kể mức độ nghiêm trọng của đợt nhiễm trước và tình trạng tiêm chủng.

Hầu hết chúng ta hiện nay coi COVID-19 là một mối phiền toái hơn là một mối nguy hiểm, nhờ vắc-xin và việc tiếp xúc với vi-rút trong quá khứ — tất cả đều đã xây dựng khả năng miễn dịch của chúng ta.

Nhưng nghiên cứu cho thấy rằng nhiều ca nhiễm COVID-19 có nguy cơ phát triển COVID kéo dài. Trong nghiên cứu COVID kéo dài lớn nhất về những người trẻ tuổi cho đến nay, các nhà khoa học do một nhóm nghiên cứu tại Đại học Pennsylvania dẫn đầu báo cáo rằng những người trẻ tuổi bị nhiễm COVID-19 hai lần có nguy cơ phát triển các triệu chứng COVID-19 kéo dài ảnh hưởng đến các cơ quan chính như tim, thận và phổi cao gấp đôi so với những người mắc COVID-19 một lần, cũng như vị giác và khứu giác.

covid-19

Dự án nghiên cứu đang diễn ra, được gọi là RECOVER, được tài trợ bởi Viện Y tế Quốc gia và khám phá tác động của nhiễm COVID-19 đối với sức khỏe lâu dài. Yong Chen, giáo sư thống kê sinh học và giám đốc Trung tâm Y tế AI và Tổng hợp Bằng chứng (CHASE) tại Đại học Pennsylvania, và các đồng nghiệp của ông đã tập trung vào những người từ 21 tuổi trở xuống để hiểu rõ hơn về việc tái nhiễm COVID-19 ảnh hưởng đến sức khỏe như thế nào. "Mọi người nghĩ rằng tái nhiễm không quan trọng lắm và không coi trọng chúng", Chen nói. "Thông điệp chính của chúng tôi là tái nhiễm vẫn quan trọng và bạn nên làm những gì có thể để tránh tái nhiễm bằng cách tiêm vắc-xin hoặc đeo khẩu trang."

Nghiên cứu liên quan đến dữ liệu được thu thập từ hơn 460.000 trẻ em, thanh thiếu niên và thanh niên từ 40 bệnh viện nhi được chẩn đoán nhiễm COVID-19 đầu tiên vào khoảng tháng 1 năm 2022; một số tiếp tục phát triển nhiễm trùng thứ hai sau đó. Vào cuối năm 2023, các nhà nghiên cứu đã so sánh nhóm chỉ nhiễm một lần với nhóm nhiễm trùng thứ hai, tập trung vào các triệu chứng giống như COVID kéo dài như đau bụng, suy hô hấp, thay đổi vị giác và khứu giác, mệt mỏi, đau ngực, viêm cơ tim hoặc nhịp tim không đều.

Những người bị nhiễm trùng thứ hai có khả năng được chẩn đoán mắc COVID kéo dài cao hơn gấp đôi so với nhóm chỉ có một lần nhiễm trùng và những người bị tái nhiễm có khả năng báo cáo những thay đổi về vị giác và khứu giác cao hơn gần ba lần so với những người chỉ bị nhiễm COVID-19 một lần. Nguy cơ này vẫn tồn tại bất kể mọi người đã được tiêm chủng hay chưa, hoặc bất kể mức độ lây nhiễm của họ nghiêm trọng như thế nào.

Tuy nhiên, "tình trạng tiêm chủng" đề cập đến việc mọi người đã được tiêm chủng trước thời gian nghiên cứu hay chưa, chứ không phải họ đã được tiêm gần đây như thế nào. (Nghiên cứu cũng được bắt đầu trước khi có vắc-xin cập nhật đầu tiên nhắm vào Omicron.) Các tác giả nhấn mạnh rằng kết quả không cho thấy vắc-xin không giúp giảm nguy cơ mắc COVID kéo dài. Thay vào đó, dữ liệu cho thấy trẻ em được tiêm chủng ít có khả năng mắc COVID-19 hơn ngay từ đầu và cũng ít có khả năng bị tái nhiễm hơn so với trẻ em chưa được tiêm chủng.

Chen nói, tiêm chủng là bước đầu tiên quan trọng trong việc bảo vệ chống lại COVID kéo dài có thể xảy ra.

Tuy nhiên, nghiên cứu cho thấy rằng ngay cả khi bạn đã được tiêm chủng, việc tái nhiễm vẫn gây ra nguy cơ đủ đáng kể để tăng gấp đôi nguy cơ phát triển COVID kéo dài so với việc chỉ tiêm một lần.

Chen nói: "Thông điệp là về mức độ nghiêm túc mà bạn nên điều trị nguy cơ nhiễm COVID-19 thứ hai tiềm ẩn của mình. Những kết quả này, cùng với các nghiên cứu khác, cho thấy rằng có thể có tác hại tích lũy của việc nhiễm COVID-19 lặp đi lặp lại đối với cơ thể và các nhà khoa học đang cố gắng hiểu rõ hơn về những tác động lâu dài tiềm ẩn đó. Chen cũng đang tiếp tục công việc để nghiên cứu ảnh hưởng của việc tiêm chủng sau lần nhiễm trùng đầu tiên có thể có đối với không chỉ nguy cơ nhiễm trùng bổ sung mà còn đối với sự phát triển của COVID kéo dài.

Tác động tại thị trường Việt Nam

Trong bối cảnh Việt Nam đã đạt tỷ lệ tiêm chủng cao và dân số trẻ, nghiên cứu về nguy cơ COVID kéo dài do tái nhiễm đặt ra cảnh báo quan trọng. Người Việt, đặc biệt nhóm thanh thiếu niên, cần tiếp tục duy trì các biện pháp phòng chống như tiêm mũi nhắc lại và đeo khẩu trang ở nơi công cộng đông người. Những kết quả này cũng thúc đẩy các cơ quan y tế và trường học xem xét chính sách giám sát sức khỏe dài hạn cho học sinh sau khi trở về lớp, đồng thời tăng cường chiến dịch truyền thông về tác hại tiềm ẩn của việc tái nhiễm. Việc xây dựng hệ thống hỗ trợ tâm lý và chăm sóc hậu COVID kéo dài tại các cơ sở y tế ở tỉnh, thành sẽ giúp phát hiện sớm và can thiệp kịp thời cho nhóm nguy cơ cao.