Nhiều bệnh nhân đến khoa cấp cứu với triệu chứng như đau bụng hoặc khó thở và được phát hiện ung thư khi làm chẩn đoán hình ảnh. Khoảng 20%–25% ca ung thư lần đầu được xác định tại đây, thường ở giai đoạn muộn và gặp nhiều ở nhóm thu nhập thấp, dân tộc thiểu số.

Điểm nổi bật:

  • Khoảng 20%–25% ca ung thư lần đầu tiên được nghi ngờ hoặc chẩn đoán tại khoa cấp cứu.
  • Các chẩn đoán ung thư ở khoa cấp cứu thường gặp ở bệnh nhân không có chăm sóc ban đầu, đến với triệu chứng không đặc hiệu như đau bụng, sụt cân hoặc mệt mỏi.
  • Bác sĩ cấp cứu dựa vào kinh nghiệm và khả năng nhận diện mẫu (“giác quan nhạy bén”) để phát hiện các trường hợp nghi ngờ ung thư.
  • Ung thư đôi khi được phát hiện tình cờ qua hình ảnh chẩn đoán dành cho các chỉ định khác.
  • Bệnh nhân được chẩn đoán ung thư tại khoa cấp cứu có xu hướng thuộc nhóm thu nhập thấp hoặc dân tộc thiểu số và thường ở giai đoạn tiến triển.

Đau bụng và đau ngực. Chấn thương. Khó thở. Nhiễm trùng. Cấp cứu sức khỏe tâm thần. Đó là một số lý do phổ biến nhất khiến người dân đến khoa cấp cứu địa phương.

Nhưng khoa cấp cứu cũng là nơi một tỷ lệ đáng kinh ngạc các ca ung thư lần đầu được chẩn đoán hoặc nghi ngờ.

Gregory Adams, DO, trợ lý giáo sư tại Khoa Y học Cấp cứu, Đại học Colorado, rất nhận thức rõ thực tế đó.

“Khi tôi còn thực tập ở Cleveland, một ngày nọ cha tôi gọi và nói, 'Chân tôi đau.' Ông là một người chạy bộ, rất khỏe mạnh và chưa từng hút thuốc một ngày nào trong đời. Tôi đến xem chân ông thì thấy giống như cục máu đông. Ông không có yếu tố nguy cơ nào. Ông nói, 'Tôi đoán dạo này tôi hơi đau bụng và có vài triệu chứng không đặc hiệu.' Thời đó mọi người hay uống paracetamol (Tylenol) mà chẳng nghĩ gì.”

Adams đưa cha đến khoa cấp cứu, nơi xác định ông bị cục máu đông ở chân. “Rồi chúng tôi chụp CT ổ bụng và phát hiện ông bị ung thư tụy di căn giai đoạn IV. Chúng tôi rất sốc. Chắc chắn không phải điều mình mong đợi.”

Cha của Adams qua đời vài tháng sau đó.

Hiện tại, Adams làm việc tại khoa cấp cứu của Bệnh viện Đại học Colorado (UCHealth University of Colorado Hospital), đối tác lâm sàng của Khoa Y học Cấp cứu Đại học Colorado. Gần đây ông tiếp nhận một bệnh nhân ngoài 30 tuổi đến vì đau bụng.

“Anh ấy vốn không nói tiếng Anh, gặp khó khăn khi tiếp cận hệ thống y tế và lo lắng về chi phí, nhưng cuối cùng vẫn tới. Chúng tôi chụp CT và phát hiện anh bị ung thư đại tràng.”

Bắt ung thư khi đã muộn

Những trường hợp như vậy không hiếm trong số 130 triệu đến 155 triệu lượt khám cấp cứu hàng năm ở Mỹ.

Các ước tính khác nhau, nhưng một nghiên cứu năm 2024 trên dữ liệu yêu cầu bảo hiểm Medicare giai đoạn 2008-2017 ước tính khoa cấp cứu tại Mỹ tham gia chẩn đoán ban đầu 20%-25% ca ung thư.

Các nghiên cứu khác chỉ ra tỷ lệ cao hơn đối với một số loại ung thư như phổi, đại trực tràng và vú. Tại hội nghị của Hiệp hội Nghiên cứu Ung thư Mỹ năm 2019, người ta cho biết bệnh nhân được chẩn đoán ung thư tại khoa cấp cứu thường có thu nhập thấp hơn hoặc thuộc nhóm dân tộc thiểu số.

Adams cho biết trong nhiều trường hợp, “người bệnh có triệu chứng nhưng không luôn tiếp cận được chăm sóc ban đầu, nên họ đến khoa cấp cứu để tìm lời giải và đôi khi chúng tôi phát hiện ung thư.”

“Tùy loại ung thư, cho đến khi khối u đủ lớn để chèn ép các cấu trúc khác hoặc lan sang nơi khác, bạn mới biết mình có bệnh. Rất tiếc là chúng tôi thường phát hiện muộn.”

Ông bổ sung, “Tôi từng tiếp nhận bệnh nhân đến vì đau lưng. Sau khi làm xét nghiệm, phát hiện họ bị ung thư từ nơi khác di căn tới và gây đau lưng.”

Giác quan nhạy bén

Với kinh nghiệm, nhân viên cấp cứu học cách nhận ra các mẫu hình—như đau bụng không đặc hiệu, giảm cân không rõ nguyên nhân hoặc mệt mỏi—những dấu hiệu gợi ý bệnh nhân có thể mắc ung thư, Adams chia sẻ.

“Đôi khi giác quan của bạn chỉ đúng khoảng nhỏ. Có thể không có triệu chứng rõ ràng nào khiến bạn nghĩ ‘Đây là ung thư,’ nhưng chúng tôi tiếp xúc đủ bệnh nhân ung thư để nhận ra dấu hiệu và có thể phát hiện khi họ đến vì lý do khác.”

Trong một số trường hợp, ung thư được phát hiện tình cờ qua hình ảnh. Khi bệnh nhân đến cấp cứu do chấn thương, “đôi khi chúng tôi chỉ định chụp CT để loại trừ tổn thương và vô tình phát hiện ung thư.”

Nhiều câu hỏi hơn là câu trả lời

Khi phát hiện khối u, nhất là ở một vị trí, thường không thể nói ngay với bệnh nhân rằng họ bị ung thư, Adams nói.

“Tôi luôn trung thực nhưng cũng rất cẩn trọng khi trao đổi. Không phải khối u nào cũng là ung thư. Chúng tôi dùng từ tumor (khối u), nhưng còn có các khối u lành tính. Chỉ khi sinh thiết mới khẳng định. Tôi sẽ nói ‘Chúng tôi phát hiện một khối bất thường và cần thêm xét nghiệm để biết nó là gì.’”

Nếu bệnh nhân nghi ngờ ung thư không cần nhập viện, “chúng tôi có nhiều nguồn lực hỗ trợ họ theo dõi ngoại trú và kết nối với chuyên gia cho chẩn đoán chính xác và bước tiếp theo.”

UCH là đối tác của Trung tâm Ung thư Đại học Colorado (CU Cancer Center), trung tâm Ung thư Toàn diện duy nhất của bang do Viện Ung thư Quốc gia Mỹ chỉ định, có chuyên môn sâu về chăm sóc và nghiên cứu ung thư.

“Chúng tôi có quan hệ tuyệt vời với đồng nghiệp khoa ung bướu,” Adams nói. “Một trong những điều khiến bác sĩ lo lắng nhất là phải nói với bệnh nhân ‘Tôi nghĩ ông/bà có thể bị ung thư.’ Càng chần chừ, bệnh nhân càng lo, nên tôi luôn muốn họ được khám sớm.”

Những cuộc trò chuyện khó khăn nhất

Đôi khi, Adams cho biết, bệnh nhân từng điều trị ung thư đến cấp cứu với triệu chứng hóa ra là dấu hiệu tái phát hoặc di căn.

“Thỉnh thoảng chúng tôi tiếp nhận người đang hóa trị giai đoạn 1. Họ nghĩ mình ổn nhưng đau bụng một chút; đến khám, chụp chiếu, thấy ung thư tiến triển. Đó là những cuộc trò chuyện khó khăn nhất. Có người đã khỏi 15 năm, nghĩ đã xong, nhưng ung thư lại quay trở lại.”

Nghiên cứu năm 2017 trên dữ liệu Mẫu cấp cứu Toàn quốc giai đoạn 2006-2012 cho thấy 4,2% lượt khám cấp cứu là bệnh nhân có tiền sử ung thư đến với triệu chứng liên quan như viêm phổi, đau ngực hoặc nhiễm trùng tiểu.

Adams, người cũng mất mẹ vì ung thư, chia sẻ ông rất đồng cảm với những bệnh nhân này: “Tôi không thể sửa được mọi thứ, nhưng tôi cố gắng làm cho ngày của họ bớt nặng nề và đưa họ đến nơi nhận được câu trả lời chính xác.”