Phân tích dữ liệu sàng lọc CT phổi liều thấp ở 7295 cá nhân, bao gồm 814 người sống sót sau ung thư, ghi nhận tỷ lệ kết quả CT dương tính và xác suất phát hiện ung thư phổi, tử vong trong 5 năm tương tự nhóm không tiền sử ung thư. Tuy nhiên, số ca phát hiện ung thư phổi cao hơn ở nhóm sống sót.

Điểm nổi bật:

  • Tỷ lệ CT dương tính tương tự nhau giữa nhóm sống sót và nhóm không ung thư.
  • Số ca phát hiện ung thư phổi cao hơn ở người sống sót (30,4 so với 18,2 trên 1000).
  • Không còn khác biệt ý nghĩa sau khi điều chỉnh tuổi và nhân khẩu học.
  • Xác suất phát triển ung thư phổi trong 5 năm và tử vong tương tự giữa hai nhóm.
  • Tỷ lệ tử vong do mọi nguyên nhân trong năm đầu tiên cũng tương đương.

Những người sống sót sau ung thư sau khi tầm soát ung thư phổi như thế nào?

photo of a doctor and patient

ĐƯỜNG TRÊN:

Trong số những bệnh nhân trong sổ đăng ký sàng lọc ung thư phổi, những người sống sót sau ung thư có kết quả tương tự như những người chưa từng bị ung thư trước đó - nhưng tỷ lệ phát hiện ung thư phổi của họ cao hơn về mặt số.

PHƯƠNG PHÁP LUẬN:

photo of Low-dose CT scan of the lungs.

  • Nghiên cứu phân tích 7295 cá nhân (tuổi trung bình 64,7), trong đó 814 người có tiền sử ung thư và 6481 không có.
  • Xác định chẩn đoán ung thư phổi trong vòng 1 năm kể từ lần CT đầu tiên.
  • Đánh giá kết quả CT dương tính (Lung-RADS 3-4X) và tính xác suất phát triển ung thư phổi trong 5 năm cũng như nguy cơ tử vong nếu không sàng lọc.
  • Những người sống sót sau ung thư có độ tuổi và tỉ lệ bệnh kèm cao hơn nhưng gần như tất cả đều là người hút thuốc hiện tại hoặc trước đây.

RÚT RA:

  • Tỷ lệ CT dương tính: 15,8% ở nhóm sống sót so với 17,0% nhóm không ung thư (OR điều chỉnh 0,91).
  • Ung thư phổi được chẩn đoán ở 25 người sống sót và 118 người không ung thư trong vòng 1 năm; tỷ lệ phát hiện số ca cao hơn (30,4 vs. 18,2/1000; P = 0,02).
  • Sau khi điều chỉnh tuổi và nhân khẩu học, sự khác biệt không còn ý nghĩa (OR điều chỉnh 1,51; P = 0,07).
  • Tỷ lệ tử vong do mọi nguyên nhân trong năm đầu tiên tương đương (19,4 vs. 17,1/1000).
  • Xác suất phát triển ung thư phổi trong 5 năm (33 vs. 30,2/1000) và tử vong do ung thư không sàng lọc (22 vs. 19,5/1000) gần như giống nhau.

TRONG THỰC TẾ:

Những phát hiện cho thấy tỷ lệ phát hiện ung thư phổi khi sàng lọc có thể cao hơn một chút ở người sống sót sau ung thư so với nhóm không có tiền sử, dù tuổi và tiền sử hút thuốc vẫn là yếu tố chọn lọc chính. Việc cân nhắc thêm các biến số lâm sàng như tiền sử ung thư cần đánh giá chung về lợi ích và rủi ro.

NGUỒN:

Nghiên cứu do M. Patricia Rivera, MD, Trung tâm Y tế Đại học Rochester thực hiện, đã được xuất bản trực tuyến vào ngày 30 tháng 9 trên JAMA Network Open.

HẠN CHẾ:

Nghiên cứu giới hạn ở một tiểu bang, kích thước mẫu nhóm sống sót nhỏ, khả năng phân loại sai tiền sử ung thư và không xác định rõ ung thư thứ hai hay tái phát.

TIẾT LỘ:

Được tài trợ bởi Viện Ung thư Quốc gia và Trung tâm Quốc gia về Thúc đẩy Khoa học Dịch thuật. Các tác giả không có xung đột lợi ích.

Những góc nhìn cho thị trường Việt Nam: Với sự gia tăng ngày càng cao của bệnh nhân sống sót sau ung thư tại Việt Nam, việc triển khai sàng lọc ung thư phổi bằng CT liều thấp có thể mang lại lợi ích tương đương như trong nghiên cứu này. Tuy nhiên, hệ thống y tế cần cân nhắc hạ tầng kỹ thuật, chi phí và khả năng tiếp cận của bệnh nhân ở các vùng xa. Việc đào tạo nhân viên y tế về đánh giá Lung-RADS và quản lý kết quả dương tính cũng rất cần thiết để tối ưu hóa lợi ích và giảm thiểu chẩn đoán quá mức. Đồng thời, cần có thêm nghiên cứu cục bộ nhằm xác định hiệu quả và tính khả thi của chiến lược sàng lọc này trong bối cảnh demograf và thói quen hút thuốc của người Việt.